Điều kiện khắc nghiệt trên đồi núi dốc
Đối với bà con bản Nam (xã Chiềng Chung, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La), cây cà phê chè là cây trồng chính, có giá trị kinh tế cao. Tuy nhiên, địa phương còn đối mặt với nhiều khó khăn trong canh tác nông nghiệp, đặc biệt là ảnh hưởng của biến đổi khí hậu.
Với độ cao 1.500m so với mực nước biển, mùa đông mây mù bao phủ khiến cây cà phê dễ bị bệnh gỉ sắt. Mặt khác trong mùa khô hạn, cây cà phê rất dễ bị héo lá và chết dù bà con đã cố gắng xới đất và bón phân. Thêm vào đó, canh tác trên sườn núi gần như dốc đứng khiến bà con gặp rất nhiều khó khăn.
Theo anh Hà Văn Thảo – hộ dân trồng cà phê chè ở xã Chiềng Chung, bà con từ lâu canh tác cà phê theo kinh nghiệm được truyền lại. Theo thói quen, họ thường phát dọn hoàn toàn cây cỏ để làm sạch vườn trồng cà phê.
“Cách làm này không có cơ sở khoa học, khiến cây cà phê thiếu nước vào mùa khô và dễ bị héo do sương mù buổi sáng, năng suất giảm sút. Mùa đông cây cà phê cũng chịu nhiều thiệt hại do lớp sương muối dày đặc”, anh Thảo bộc bạch.
Theo nghiên cứu của Viện KHKT Nông lâm nghiệp miền núi phía Bắc (NOMAFSI), cà phê chè rất dễ bị tổn thương ngay cả với những thay đổi nhỏ về điều kiện thời tiết. Thay đổi về hình thái mưa sẽ dẫn tới những thay đổi thời gian ra hoa, thời gian chín của quả, kéo theo đó là thời gian thu hoạch. Trong khi những thay đổi về nhiệt độ làm tăng tần suất xuất hiện của sâu bệnh hoặc làm phát sinh sâu bệnh hại mới.
Những thách thức trên đặt ra yêu cầu kỹ thuật canh tác bền vững như che phủ đất, trồng và duy trì cây che bóng cùng các kỹ thuật bảo tồn nước; đưa giống cà phê cải tiến vào sản xuất; tăng cường quản lý sinh vật gây hại tổng hợp…
Triển vọng nhân rộng mô hình nông – lâm kết hợp
Trong khuôn khổ dự án “Chuyển đổi nông nghiệp sinh thái và hệ thống thực phẩm an toàn” (ASSET), nhằm hỗ trợ nông dân Mai Sơn, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã triển khai mô hình nông – lâm kết hợp dựa trên cây cà phê.
Cụ thể, nghiên cứu của NOMAFSI và Trung tâm Hợp tác quốc tế về Nghiên cứu Nông nghiệp vì sự phát triển (CIRAD) tập trung tăng cường khả năng chống chịu của cây trồng trước điều kiện thời tiết khắc nghiệt.
Một trong những trọng tâm chính là trồng các dải cỏ để ngăn ngừa xói mòn đất, kết hợp với các loại cây thân gỗ che bóng. Việc trồng cây che bóng không chỉ giúp giảm nắng gắt và hạn chế sự biến động nhiệt độ mà còn đặc biệt hiệu quả trong mùa đông khi giúp cây cà phê chống chịu rét đậm, rét hại và sương muối.
Ngoài cây che bóng, nông dân bản Nam còn áp dụng kỹ thuật trồng các loại cỏ và cây họ đậu theo đường đồng mức tạo thành hệ thống chống xói mòn hiệu quả, giảm thiểu sự thất thoát dinh dưỡng trong đất.
Dưới tán cây cà phê, nông dân trồng cỏ để thu hoạch ủ men vi sinh làm thức ăn cho bò và dê quanh năm. Nhờ vậy, họ tiết kiệm được 80% chi phí thức ăn trong chăn nuôi.
Với nguồn thức ăn dồi dào này, anh Hà Văn Thảo đã đầu tư nuôi 10 con bò, 30 con dê và một đàn gà bản địa. Anh chia sẻ: “Phân bò và phân dê được ủ với men vi sinh do cán bộ dự án hỗ trợ. Phân đã qua xử lý được dùng để bón cho cây cà phê giúp giảm phần lớn chi phí phân bón và bảo vệ môi trường”.
Ghép giống, “trẻ hóa” vườn cà phê
Bản Nam hiện có khoảng 50ha cà phê, trong đó 45% diện tích áp dụng mô hình nông nghiệp sinh thái sau 2 năm tham gia dự án ASSET. Vườn cà phê hơn 13.000 gốc của anh Hà Văn Thảo nhờ áp dụng mô hình này đã đạt năng suất cao gấp 3 lần so với trước đây, dự kiến thu hoạch 14 tấn quả. Với giá cà phê tươi trung bình 20.000 đồng/kg, anh Thảo phấn khởi khi lợi nhuận năm nay ước đạt khoảng 200 triệu đồng.
Tuy nhiên sau nhiều năm canh tác, vườn cà phê của anh Thảo bắt đầu giảm năng suất, trái nhỏ và cây sinh trưởng kém. Nhận thấy tiềm năng phát triển vùng trồng cà phê arabica ở bản Nam, các cán bộ dự án ASSET đã giới thiệu phương pháp đốn để trẻ hóa, cải thiện năng suất. Cụ thể, các chuyên gia hướng dẫn nông dân ghép các giống mới vào những cây bắt đầu có dấu hiệu già cỗi nhưng sức khỏe của gốc vẫn đảm bảo.
So với việc trồng mới cần ít nhất 3 năm để cây trưởng thành và cho quả, chồi ghép nếu được chăm sóc tốt có thể bắt đầu cho thu hoạch từ năm thứ 2. Đặc biệt, các giống chồi ghép được chọn lọc kỹ lưỡng, đảm bảo thích nghi với môi trường râm mát và có năng suất ổn định khi trồng dưới cây che bóng.
Trong khuôn khổ dự án, nghiên cứu của TS Rigal Clement (CIRAD) và cộng sự đã xác định 2 giống lai Starmaya và Centroamericano phù hợp với điều kiện canh tác trong bóng râm, đồng thời duy trì năng suất cao.
Dự án đặt mục tiêu đến năm 2025 sẽ sản xuất từ 80.000 đến 100.000 cây giống F1 lai và từ 500.000 đến 700.000 cây giống gieo hạt mỗi năm. Công nghệ cắt vi mô sẽ được ứng dụng để nhân giống cà phê và các loại cây che bóng, góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững cho vùng trồng.
Đa dạng hóa thu nhập dựa trên tập quán bản địa
Thạc sỹ Nguyễn Hoàng Phương, giảng viên Đại học Tây Bắc và điều phối viên của dự án ASSET tại Sơn La cho hay, theo các nghiên cứu trước đây, cây keo dậu được đánh giá là rất tốt để che bóng cho cà phê. Tuy nhiên, người dân cho rằng dù cây keo dậu che bóng tốt nhưng lại không mang lại thu nhập.
Dựa trên ý kiến này, nhóm dự án đã tìm hiểu và thấy rằng cây trám đen không chỉ che bóng tốt mà còn cung cấp quả. Đây là loại thực phẩm quen thuộc trong bữa ăn của người Thái, thường ăn kèm với cơm nếp và cá nướng. Khi đưa cây trám vào trồng, người dân rất ủng hộ và hi vọng rằng trong 3 – 4 năm tới, cây trám đen sẽ cho thu hoạch, góp phần gia tăng giá trị kinh tế.
Nguồn: nongnghiep.vn