Có thể nói máy sạ cụm, đặc biệt là sạ cụm kết hợp bón vùi phân là trợ thủ đắc lực của sản xuất lúa, là giải pháp cơ giới hóa khâu xuống giống hiệu quả và hơn thế nữa, máy sạ cụm là tiến bộ kỹ thuật kép. Chúng không những nâng cao năng suất lao động mà còn góp phần nâng cao năng suất sinh học. Máy sạ cụm đáp ứng tốt mục tiêu Đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao tại ĐBSCL.
Vụ hè thu 2024, máy sạ lúa theo cụm đã được sử dụng để thực hiện mô hình thí điểm Đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao trên địa bàn tỉnh Trà Vinh (HTX Phước Hảo, xã Phước Hảo, huyện Châu Thành), và tiếp đó vụ thu đông 2024 được thực hiện tại Đồng Tháp (HTX Thắng Lợi, xã Láng Biển, huyện Tháp Mười) và Kiên Giang (HTX DVNN Thanh Niên Phú Hòa, xã Tân Hội, huyện Tân Hiệp).
Tại Trà Vinh mô hình thực hiện 50ha với giống lúa ST24 trên nền phân hữu cơ Con Voi – Bình Dương. Tại Đồng Tháp mô hình thực hiện 24,5ha với giống lúa OM18 trên nền phân Đầu Trâu. Tại Kiên Giang mô hình thực hiện 18ha với giống lúa Đài Thơm 8 trên nền phân Bình Điền II.
Các mô hình được thực hiện theo quy trình kỹ thuật sản xuất lúa chất lượng cao và phát thải thấp vùng ĐBSCL, đảm bảo đáp ứng các yêu cầu của Đề án đã được phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ.
Các điểm mô hình tại Trà Vinh, Đồng Tháp và Kiên Giang đã được Cục Trồng trọt cùng với các đơn vị thuộc Bộ phối hợp các địa phương kiểm tra, tổng kết, đánh giá. Qua tổng kết, đánh giá, cho thấy kết quả đạt được tại các điểm mô hình là thực sự đáng ghi nhận, đặc biệt là các kết quả về mặt kỹ thuật đều đạt và vượt qua tất cả các chỉ tiêu của đề án.
Lượng giống gieo sạ chỉ sử dụng từ 60 kg/ha (Trà Vinh) và 70 kg/ha (Đồng Tháp, Kiên Giang), bình quân 64,6 kg/ha, thấp hơn lượng giống sạ lan trong sản xuất bình quân 81 kg/ha (giảm 55,7% lượng giống sử dụng), đáp ứng chỉ tiêu lượng giống gieo sạ theo Đề án đến năm 2030 là dưới 70 kg/ha. Lượng phân đa lượng nguyên chất (N, P2O5, K2O): Do ruộng sạ thưa, nhu cầu dinh dưỡng khoáng giảm bớt nên mô hình chỉ sử dụng từ 144 – 147 kg/ha (Trà Vinh, Kiên Giang) đến 177 kg/ha (Đồng Tháp), bình quân 153 kg/ha, thấp hơn tổng lượng phân sử dụng trong sản xuất bình quân 97,4 kg/ha (giảm 38,9% tổng lượng phân sử dụng).
Riêng đối với phân đạm, các điểm mô hình chỉ sử dụng 66 – 67 kg/ha (Kiên Giang, Trà Vinh) đến 80 kg/ha (Đồng Tháp), bình quân 70,2 kg/ha, thấp hơn lượng phân đạm sử dụng trong sản xuất bình quân 57,6 kg/ha (giảm 45,1% lượng đạm sử dụng).
Số lần phun thuốc BVTV: Do sạ thưa, ruộng lúa đầy đủ ánh sánh và sử dụng ít phân bón, đặc biệt là phân đạm nên mô hình giảm áp lực sâu bệnh khá rõ, chỉ phun thuốc BVTV từ 5 lần (Trà Vinh), 6 lần (Kiên Giang) đến 7 lần (Đồng Tháp), bình quân 5,7 lần/vụ, thấp hơn số lần phun trong sản xuất bình quân 2,6 lần/vụ (giảm 31,2% số lần phun). Theo đó, điểm mô hình lúa tại Trà Vinh đã được cấp giấy chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn VietGAP và có giá bán cao hơn lúa trong vùng 350 đồng/kg.
Chi phí sản xuất, từ 18.059.000 – 18.712.000 đồng/ha (Đồng Tháp, Kiên Giang) đến 22.380.000 đồng/ha (Trà Vinh), bình quân 20.521.746 đồng/ha, thấp hơn chi phí trong sản xuất bình quân 3.097.486 đồng/ha (giảm 13,1% chi phí sản suất). Điều này thật sự có ý nghĩa trong bối cảnh vật tư tăng giá.
Năng suất lúa: Mặc dầu cuối vụ hè thu và suốt vụ thu đông khí hậu, thời tiết diễn ra không thuận lợi, các cơn mưa ít xảy ra nhưng lượng mưa nhiều và kéo dài kèm theo giông và gió to gây khó khăn trong công tác chăm sóc và thu hoạch lúa, nhưng với việc tuân thủ thực hiện các giải pháp chỉ đạo sản xuất sâu sát, kịp thời nên năng suất lúa vẫn đảm bảo từ 46,8 tạ/ha (Kiên Giang), 58,8 tạ/ha (Đồng Tháp) đến 66 tạ/ha (Trà Vinh), bình quân 61 tạ/ha, cao hơn năng suất lúa ngoài sản xuất bình quân 3,1 tạ/ha (tăng 5,3% năng suất lúa);
Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận: Với năng suất lúa tăng bình quân 5,3%, chi phí sản xuất giảm bình quân 13,1% so với ngoài sản xuất nên lợi nhuận đã đạt được từ 20.732.000 đồng/ha (Kiên Giang), 32.852.554 đồng/ha (Đồng Tháp) đến 45.570.000 đồng/ha (Trà Vinh), bình quân 37.368.255 đồng/ha, cao hơn lợi nhuận ngoài sản xuất bình quân 6.455.920 đồng/ha (tăng 20,9% lợi nhuận). Qua đây, cũng tính được tỉ suất lợi nhuận đã đạt được 64,6%, vượt chỉ tiêu 50% của đề án.
Giá thành sản xuất lúa từ 2.941 đồng/kg lúa (Đồng Tháp), 3.391 đồng/kg (Trà Vinh) đến 3.998 đồng/kg (Kiên Giang), bình quân 3.362 đồng/kg, thấp hơn giá thành sản xuất lúa ngoài sản xuất bình quân 713 đồng/kg (giảm 17,5% giá thành sản xuất lúa).
Giảm phát thải: Lượng phát thải 5,36 tấn CO2tđ/ha (Trà Vinh), 6 tấn CO2tđ/ha (Kiên Giang), 6,41 tấn CO2tđ/ha (Đồng Tháp), bình quân 5,76 tấn CO2tđ/ha, thấp hơn lượng phát thải ngoài sản xuất bình quân 6,99 tấn CO2tđ/ha (giảm 54,8% lượng phát thải). Điểm lưu ý trong quy trình canh tác: Ở cả 3 điểm mô hình đều rút nước 3 lần trong vụ, nhưng điểm Trà Vinh sử dụng lượng phân ít hơn nên phát thải cũng thấp hơn.
Các kết quả trên đã được lãnh đạo Bộ NN-PTNT, các địa phương và người sản xuất đánh giá rất cao tại các hội nghị tổng kết, tất cả đều thấy được kết quả các mô hình thí điểm tại Trà Vinh, Đồng Tháp và Kiên Giang đã đáp ứng được các yêu cầu (về mặt kỹ thuật) của Đề án.
Qua đây, chúng ta có thể khẳng định, hiệu quả kinh tế sản xuất lúa nói riêng, canh tác lúa bền vững nói chung sẽ đạt được kết quả cao nếu thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ các yêu cầu trong một gói kỹ thuật đồng bộ, bao gồm nhiều yếu tố: Giống, dinh dưỡng khoáng, bảo vệ thực vật, biện pháp canh tác…
Chúng ta cũng có thể khẳng định, điểm nhấn trước hết và quan trọng nhất của gói kỹ thuật đồng bộ trong thực trạng tiến bộ kỹ thuật sản xuất lúa hiện nay là giảm giống. Bởi lẽ, giảm giống, chỉ sử dụng lượng hạt giống ít nên người dân có cơ hội sử dụng hạt giống tốt, chất lượng cao, và quan trọng hơn, từ chỗ giảm lượng hạt giống sử dụng kéo theo giảm lượng phân bón và thuốc BVTV, giảm ô nhiểm môi trường, nâng cao năng suất và chất lượng lúa gạo, giảm phát thải…
Kết quả lan tỏa có được từ việc giảm giống là vô cùng lớn bởi lẽ có sự cộng hưởng đến nhiều yếu tố và từ nhiều yếu tố trong gói kỹ thuật đồng bộ.
Thực tế, chủ trương giảm lượng giống gieo sạ đã có từ lâu, và đồng hành với chủ trương giảm lượng giống gieo sạ là chủ trương đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất lúa, trong đó đặc biệt quan tâm là cơ giới hóa khâu xuống giống, vì đây là khâu hiện còn yếu nhất theo mục tiêu cơ giới hóa đồng bộ sản xuất lúa; hơn nữa, không kém phần quan trọng, cơ giới hóa khâu xuống giống có thể góp phần cho việc giảm lượng giống gieo sạ…
Trong mối tương quan trên thì thời gian qua máy cấy được xem là thiết bị có thể đồng hành với chủ trương giảm lượng giống gieo sạ, đẩy mạnh cơ giới hóa khâu xuống giống bằng máy cấy là góp phần thúc đẩy thực hiện chủ trương giảm lượng giống gieo sạ, giảm lượng phân bón và thuốc BVTV sử dụng…
Tuy nhiên, chủ trương là vậy, cùng với nhiều giải pháp hổ trợ tích cực khác phối hợp (như Quyết định 61, 63, 65, 68 của Chính phủ về chính sách hổ trợ nhằm giảm tổn thất trong nông nghiệp…), nhưng đến nay, đã qua thời gian phát động khá lâu, máy cấy vẫn chưa được sản xuất chấp nhận như là giải pháp hiệu quả phục vụ cơ giới hóa khâu xuống giống. Bởi lẽ, chi phí đầu tư mua sắm thiết bị quá cao (phải mua sắm đồng bộ nhiều thiết bị mới hoạt động được, bao gồm: Máy cấy, máy xay đất, máy gieo hạt, khay gieo hạt, mặt bằng chăm sóc mạ …). Do chi phí đầu tư lớn nên chi phí cho dịch vụ gieo cấy quá cao so với tập quán gieo sạ hiện nay (do phải kinh qua giai đoạn gieo và chăm sóc mạ khay).
Nền ruộng ở nhiều địa phương sình lầy, không đảm bảo độ cứng cho máy cấy hoạt động. Khác với máy cấy, máy sạ cụm có thể khắc phục được các mặt hạn chế trên. Người nông dân không cần phải đầu tư đồng bộ cả dàn máy sạ cụm với kinh phí lớn mà chỉ cần đầu tư bộ phận công tác (bộ phận sạ lúa theo cụm) với kinh phí phù hợp để kết nối với các loại máy làm đất, như máy cày lớn, máy xới nhỏ/máy tèn hen… là các loại máy móc đang được sử dụng phổ biến trong vùng. Và như thế, người nông dân có thể sử dụng các “cổ máy ghép” này vừa để làm đất vừa phục vụ xuống giống theo nhu cầu, đáp ứng được việc vừa giảm chi phí đầu tư thiết bị đồng bộ ban đầu, vừa tăng thời gian hoạt động của máy móc đã đầu tư trước đó.
Máy sạ cụm sử dụng hạt giống khi sạ, khỏi phải qua công đoạn gieo mạ khá phức tạp, tốn thêm chi phí, và do đó giá thành khâu xuống giống bằng giải pháp sạ cụm chỉ bằng 1/3 so với giá thành khâu xuống giống bằng giải pháp cấy.
Dàn sạ cụm liên kết được với nhiều thiết bị, máy móc khác nhau, có vòng bánh, cở bánh, cấu trúc bánh khác nhau, tương thích với nhiều địa hình, nền ruộng lún lầy khác nhau nên khắc phục được tình trạng “kén” đất như của máy cấy đối với các nền ruộng sình lầy, không đảm bảo độ cứng cho máy hoạt động.
Ngoài ra, máy sạ cụm còn có năng suất làm việc cao hơn (6–8-10 ha/ngày tùy loại) so với máy cấy chỉ đạt 3–4 ha/ngày, giúp đẩy nhanh lịch thời vụ xuống giống tập trung, né rầy là yêu cầu của sản xuất lúa vùng ĐBSCL.
Với ý nghĩa này, có thể nói máy sạ cụm đã làm được cuộc “cách mạng” trong giảm lượng hạt giống lúa gieo sạ hiện nay, một điều mà ngành nông nghiệp và nhiều địa phương đã phát động nhiều năm, nhưng kết quả vẫn còn trong mong đợi.
Các lợi thế trên bắt nguồn từ việc sử dụng lượng hạt giống tối thiểu trong gieo sạ, và quan trọng hơn của sạ cụm là, không chỉ giảm lượng giống mà thông qua cấu trúc “hộp đen gieo giống” của thiết bị sạ cụm, hạt giống được phân bố đều trên mặt ruộng theo hàng, theo cụm (khác với máy sạ hàng chỉ có thể phân bố hạt giống theo hàng, không thể phân bố hạt giống theo cụm), với mật độ gieo theo yêu cầu; qua đó giúp ruộng lúa tiếp cận và phát huy được lợi thế của hiệu ứng hàng biên/hàng bờ (cả hai chiều) cho sinh trưởng, phát triển mà các hình thức gieo sạ khác không đáp ứng được!
Có thể nói, sạ cụm đã hội tụ đủ các lợi thế về mặt kỹ thuật của giải pháp cấy, đồng thời còn khắc phục được mặt hạn chế về chi phí khâu cấy quá cao cũng như khả năng vượt lầy trên nền đất yếu của máy cấy chưa khắc phục được.
Mặt khác, nếu sạ cụm kết hợp được với giải pháp bón vùi phân cùng lúc với gieo sạ thì sẽ khai thác triệt để hơn các lợi thế của sạ cụm, đồng thời cộng hưởng thêm các lợi thế sau: Phân được bón vùi sâu nên giảm được thất thoát, đặc biệt là phân đạm do bốc hơi hoặc trôi theo dòng nước nếu nước tràn mặt ruộng khi vừa mới bón phân. Phân được bón vùi sâu nên kích thích rễ lúa ăn sâu, giúp hạn chế lúa đổ, ngã, nhất là ở vụ hè thu và thu đông, đồng thời tăng khả năng chịu hạn cho ruộng lúa nếu gặp hạn, mặn, thiếu nước tưới cuối vụ (đông xuân)
Phân được bón vùi liền kề với cụm lúa sạ, giúp cụm lúa tiếp cận với phân và lấy phân dễ dàng, hạn chế việc mất phân cho cỏ dại chung quanh (như giải pháp bón vải), từ đó giúp nâng cao được hiệu suất sử dụng phân bón.
Phân được thiết bị sạ cụm kết hợp bón vùi trong khi gieo sạ nên tiết kiệm được chi phí công lao động bón vải nhiều lần sau này. Đặc biệt, bón vùi phân đồng thời cùng lúc với gieo sạ sẽ cung cấp khoáng chất dinh dưỡng cho cây lúa kịp thời ngay từ những ngày đầu sau sạ, đảm bảo nhu cầu khoáng của cây lúa, giúp cây lúa sung sức, đẻ chồi sớm, đẻ chồi tập trung, là yêu cầu cấp thiết cho ruộng lúa sạ cụm, sạ thưa, nhằm đảm bảo số chồi, số bông/m2 cho năng suất lúa tối đa.
Với những lợi thế trên, giải pháp sạ cụm kết hợp bón vùi phân có thể giúp giảm 20 – 30% lượng phân bón so với quy trình bón phân vải trên mặt ruộng nhiều lần như cách làm lâu nay.
Có thể nói máy sạ cụm, đặc biệt là sạ cụm kết hợp bón vùi phân là trợ thủ đắc lực của sản xuất lúa, là giải pháp cơ giới hóa khâu xuống giống hiệu quả, và hơn thế nữa, máy sạ cụm là tiến bộ kỹ thuật kép. Không những nâng cao năng suất lao động mà còn nâng cao năng suất sinh học; máy sạ cụm đáp ứng tốt mục tiêu Đề án.
Với lợi thế vượt trội của giải pháp sạ cụm trong sản xuất lúa, hiện nay thiết bị sạ cụm đã được người sản xuất trong cả nước, từ ĐBSCL đến Đồng bằng sông Hồng tiếp nhận. Đơn vị cũng đã xuất khẩu máy sạ cụm qua Campuchia, Ấn Độ và sắp tới máy sạ cụm cũng được chuyển qua Philippines.
Hiện nay Sài Gòn Kim Hồng đang phân phối 4 mẫu máy sạ cụm chính:
Thiết bị sạ cụm liên kết máy cấy, có chiều rộng băng sạ 3,0 mét, với 12 hàng, hàng cách hành 25 cm; năng suất gieo sạ 6 – 8 ha/ngày.
Thiết bị sạ cụm liên kết máy cày lớn, có chiều rộng băng sạ từ 4,0 – 5,0 mét, với 16 – 20 hàng, hàng cách hàng 25 cm. Năng suất gieo sạ 8 – 12 ha/ngày.
Thiết bị sạ cụm liên kết máy xới nhỏ (máy tèn hen), có chiều rộng băng sạ 3,0 mét, với 12 hàng, hàng cách hành 25 cm; năng suất gieo sạ 6 – 8 ha/ngày.
Máy sạ cụm dẫn bộ, có chiều rộng băng sạ 2,0 mét, với 8 hàng, hàng cách hàng 25 cm. Năng suất gieo sạ 3 – 4 ha/ngày. Máy thích hợp cho những đồng ruộng có nền đất yếu, lô thửa nhỏ.
Ngoài ra, các mẫu máy trên (trừ máy sạ cụm dẫn bộ) có thể tích hợp thêm bộ phận bón vùi phân, bộ phận phun thuốc diệt mầm để trở thành mẫu máy “2 in 1”, “3 in 1”. Các mẫu máy trên đều có thể chuyển từ sạ cụm qua sạ hàng bằng cách điều chỉnh ngay trên đồng cự li cụm gần hơn (2 – 3cm) và số hạt mỗi cụm ít hơn (3 – 4 hạt).
Nguồn: nongnghiep.vn