Sang “Cam” làm nông
Hệ thống Khuyến nông Kiên Giang có điểm đặc biệt là được thành lập sớm nhất cả nước (từ năm 1991), trước 2 năm khi Trung tâm Khuyến nông Quốc gia được thành lập (năm 1993). Có sự tiên phong này là do lãnh đạo tỉnh Kiên Giang rất chú trọng hoạt động khuyến nông, xem đây là tiền đề để phát triển nông nghiệp, là cầu nối đưa kiến thức, khoa học kỹ thuật đến với nông dân. Không chỉ vậy, Kiên Giang còn đưa cán bộ khuyến nông ra nước ngoài xây dựng mô hình sản xuất, chuyển giao kỹ thuật, một hình thức ngoại giao nhân dân rất độc đáo.
Ông Phù Khí Nguyên, nguyên Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang là người gắn bó với khuyến nông từ rất sớm. Hơn 33 năm công tác trong ngành nông nghiệp thì có đến gần 30 năm ông Nguyên làm khuyến nông. Ông bảo: “Làm khuyến nông, đi chuyển giao kỹ thuật vui nhất là luôn được gần gũi, gắn bó với nông dân. Xây dựng mô hình sản xuất, cán bộ cùng ăn, cùng ở, cùng lội đồng, coi ruộng đồng, mùa vụ của nông dân như làm cho chính nhà mình. Vì vậy, khi kết quả nông dân trúng mùa, đạt lợi nhuận cao là mình cũng sung sướng theo”.
Trong hàng chục năm làm công tác khuyến nông, ông Nguyên vẫn nhớ như in những kỷ niệm gắn bó thân thiết với nông dân, với những vụ mùa, với thành công của từng mô hình sản xuất, đặc biệt là kỷ niệm về những chuyến công tác làm khuyến nông xuyên biên giới…
Ông kể: “Tỉnh Kampot và thành phố Kep là hai địa phương của Campuchia mà tôi và các cán bộ khuyến nông qua hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng mô hình sản xuất thường xuyên nhất. Cả trồng lúa, rau màu ngắn ngày và nuôi thủy sản nước ngọt. Mỗi vụ trồng lúa đi từ 4 – 5 chuyến, mỗi chuyến đi khoảng 1 tuần, cứ như vậy kéo dài trong nhiều năm, với biết bảo kỷ niệm”.
Việt Nam và Campuchia có chung đường biên giới trên đất liền dài hàng ngàn km, đi qua 10 tỉnh biên giới Việt Nam, trong đó có tỉnh Kiên Giang. Để thắt chặt hơn nữa mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Camphuchia ở cấp tỉnh và nhân dân hai nước, UBND tỉnh Kiên Giang đã ký văn bản ghi nhớ hợp tác với chính quyền tỉnh Kampot và thành phố Kep, trong đó có lĩnh vực nông nghiệp. Theo đó, tỉnh Kiên Giang đã cấp kinh phí hàng năm và cử cán bộ sang hỗ trợ kỹ thuật chọn giống, sản xuất lúa, trồng rau màu, nuôi thủy sản để nâng cao năng suất, chất lượng cho nông dân nước láng giềng.
Ông Nguyên cho biết, cơ sở hạ tầng về giao thông, thủy lợi ở các vùng nông thôn tại Camphuchia còn yếu kém, rất ít kênh mương nội đồng được đầu tư nên công tác tưới tiêu bị hạn chế, gây khó khăn cho sản xuất. Đất đai rộng nhưng chủ yếu là đất pha cát, lại không có đê bao chắc chắn nên rất khó giữ được nước. Vì vậy, trồng lúa, rau màu đều kém hiệu quả, năng suất thấp.
Để giúp ngành nông nghiệp tỉnh Kampot, thành phố Kep và nông dân trồng lúa, ngoài cử cán bộ khuyến nông sang tập huấn kỹ thuật, tỉnh Kiên Giang còn hỗ trợ lúa giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, dụng cụ sạ hàng, máy phun thuốc… Theo ông Nguyên, do việc giữ nước gặp khó khăn nên khuyến nông đã chọn phương án bơm nước, bón phân liền cho kịp tan, sau đó thì giữ ẩm nền ruộng cho lúa phát triển. Nếu ở Việt Nam vụ lúa chỉ cần bón 3 đợt phân thì ở Campuchia phải chia nhỏ, bón làm nhiều đợt cây lúa mới có thể hấp thụ được, tránh trường hợp phân không kịp tan, bị hao hụt nhiều do bốc hơi. Với cách làm này, đã giúp năng suất lúa tăng lên so với cách làm truyền thống của nông dân sở tại.
Thời gian đầu, khi mới qua chuyển giao kỹ thuật, sản xuất bằng giống lúa mùa địa phương của họ, năng suất chỉ đạt 1,5 tấn/ha. Bằng việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật được tập huấn, đã đưa năng suất lúa tăng gấp đôi, đạt 3 tấn/ha. Sau đó, Kiên Giang đã đưa một số giống lúa ngắn ngày của Việt Nam qua hỗ trợ và trực tiếp cùng nông dân thực hiện mô hình, năng suất lúa thu hoạch cao nhất đạt 6 tấn/ha, cách biệt rất lớn so với lúa lúa mùa truyền thống của Campuchia.
Anh Phạm Văn Ẩn, Phó Trưởng phòng Khuyến nông – Trồng trọt và Chăn nuôi (Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang) là cán bộ được cử theo đoàn sang Campuchia chuyển giao kỹ thuật cho nông dân sở tại. Anh Ẩn cho biết, không chỉ sản suất lúa mà trồng rau màu ở Campuchia cũng bị thiếu nước nên cây còi cọc, thời gian trồng thường kéo dài nhưng chu kỳ thu hoạch lại rất ngắn và năng suất thấp. Vì vậy, trong bữa ăn của người dân bản địa thường ít hoặc thiếu rau xanh.
Để khắc phục hạn chế này, cán bộ khuyến nông Kiên Giang đã tập huấn cho họ cách ủ phân hữu cơ từ rơm rạ và phân bò. Ở Campuchia người dân nuôi rất nhiều bò nên phân bò luôn có sẵn nhưng họ ít khi tận dụng. Phía Kiên Giang còn hỗ trợ nấm Trichoderma để phân hủy rơm rạ, đẩy nhanh quá trình ủ phân hữu cơ.
Khi có nguồn phân hữu cơ nhiều, việc cải tạo đất dễ dàng hơn, giữ ẩm được tốt hơn, trồng trọt mang lại hiệu quả cao. Ngoài ra, Kiên Giang còn hỗ trợ giống rau màu và màng phủ nông nghiệp, chuyển giao kỹ thuật sử dụng màng phủ trong canh tác rau màu. Với cách làm này, lực lượng khuyến nông Kiên Giang đã giúp nông dân Campuchia trồng khổ qua, dưa leo và một số loại rau ăn lá đạt hiệu quả cao, năng suất tăng gấp nhiều lần so với cách canh tác truyền thống của họ.
Ông Phù Khí Nguyên cho biết, một khó khăn lớn trong việc qua Campuchia làm công tác khuyến nông đó chính là sự bất đồng ngôn ngữ. Để khắc phục, ông Nguyên đã tự nguyện đăng ký học chứng chỉ tiếng Campuchia tại trường Dân tộc nội trú tỉnh. Sau khóa học, ông đã tự mình đọc được các văn bản, nói chuyện trực tiếp được với nông dân Campuchia nên việc chuyển giao kỹ thuật dễ dàng hơn. Cứ sáng tập huấn lý thuyết thì chiều ra mô hình thực hành luôn. Ngoài ra, khi các đoàn của Campuchia qua Kiên Giang tham quan, học tập về các mô hình về sản xuất nông nghiệp, ông Nguyên thường được cử làm “đại sứ” tiếp đoàn nhờ biết giao tiếp bằng tiếng Campuchia.
Xuyên rừng đi hỗ trợ trồng lúa
Ngoài Campuchia, Kiên Giang còn cử đoàn cán bộ ngành nông nghiệp sang thực hiện dự án hỗ trợ kỹ thuật sản xuất giống và canh tác lúa tại tỉnh Salavan, Lào. Đoàn gồm cán bộ Chi cục Trồng trọt – BVTV, Trung tâm Giống nông lâm ngư nghiệp và Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang. TS Đỗ Minh Nhựt, nguyên Phó Giám đốc Sở NN-PTNT làm trưởng đoàn.
Từ Kiên Giang đi tỉnh Salavan bằng đường bộ khá xa, mất 3 ngày 3 đêm mới tới nơi. Theo đó, đoàn đi từ Việt Nam qua Lào thông qua cửa khẩu quốc tế Bờ Y (huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum). Ông Nhựt kể: “Quá trình đi phải băng qua 2 cánh rừng quốc gia của nước bạn Lào. Cả tài xế và đoàn đi đều lạ đường, vì vậy chỉ dám đi ban ngày, chiều phải tìm chỗ nghỉ lại trước khi trời sập tối”.
Theo ông Nhựt, quá trình thực hiện dự án gặp nhiều khó khăn do địa bàn trải rộng, xây dựng nhiều mô hình (quy mô 5ha/mô hình) tại 4 huyện là Salavan, Vapi, Khôngsêđôn và Lakhônpheng thuộc tỉnh Salavan. Vì vậy, cần phải có thời gian đi khảo sát, chọn địa điểm thực hiện cho phù hợp.
Cơ sở hạ tầng tại nơi sản xuất còn yếu kém, nguồn nước bơm tưới chưa chủ động được. Bên Lào có đầu tư trạm bơm điện nhưng nguồn điện chủ yếu phục vụ cho chiếu sáng và sinh hoạt, không được ưu tiên cho phục vụ sản xuất. Tại các huyện chưa áp dụng cơ giới hóa, chủ yếu là cấy tay nên thời gian cấy kéo dài, ảnh hưởng đến khả năng đẻ nhánh của mạ. Nông dân chưa có thói quen sử dụng phân chuồng, phân hữu cơ để cải tạo đất, còn tập quán đốt rơm rạ ngoài đồng khá nhiều, gây lãng phí tài nguyên. Đoàn công tác cũng bất đồng ngôn ngữ nên khó khăn trong trao đổi, hướng dẫn kỹ thuật.
Anh Trần Minh Tài, Trưởng phòng Kế hoạch – Cung ứng (Trung tâm Giống nông lâm ngư nghiệp Kiên Giang) là cán bộ kỹ thuật được cử đi theo đoàn cho biết, dự án vừa hỗ trợ làm khảo nghiệm so sánh giống lúa, vừa xây dựng mô hình nhân giống lúa và hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật canh tác. Địa điểm khảo nghiệm làm tại Trại Nghiên cứu Phát triển nông nghiệp Nôngđeng (tỉnh Salavan), còn mô hình làm ở các huyện trong tỉnh.
Có 7 giống lúa được lựa chọn thực hiện dự án hợp tác gồm 3 giống của tỉnh Salavan là Salavan1, Pakcheng1, Thadorkham37 và 4 giống IR4625, OM441 OM4900 và Nếp Sáp do tỉnh Kiên Giang hỗ trợ, cung cấp để thực hiện dự án.
Tại Lào, mỗi năm có 2 vụ sản xuất lúa là vụ chiêm (thường bắt đầu từ tháng 11 năm trước qua tháng 3 năm sau) và vụ mưa (từ tháng 6 – 10 hàng năm). Tỉnh Kiên Giang đã cử cán bộ ngành nông nghiệp trực tiếp chuyển giao kỹ thuật, hỗ trợ lúa giống, phân bón, kỹ thuật và một phần chi phí công cấy lúa… Kết quả, mô hình thực hiện đã giúp tăng năng suất lúa thêm gần 1 tấn/ha so với bên ngoài, giúp tăng thêm thu nhập cho nông dân trồng lúa.
TS Đỗ Minh Nhựt cho biết, dự án tại Lào được thực hiện qua 2 vụ lúa liên tiếp, đã tổ chức được 7 lớp tập huấn quy trình kỹ thuật về sản xuất lúa giống và canh tác lúa cho cán bộ ngành nông nghiệp tỉnh Salavan và nông dân; xây dựng các mô hình sản xuất với tổng diện tích 20ha, có 24 hộ nông dân tham gia, họ hưởng ứng rất tích cực.
Quá trình thực hiện, đoàn cán bộ Sở NN-PTNT Kiên Giang phối hợp với Sở Nông lâm nghiệp Salavan thường xuyên thăm đồng và gặp gỡ, trao đổi với nông dân ở các mô hình. Kết quả, dự án đã hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật chọn giống, sản xuất giống lúa và kỹ thuật canh tác lúa để nâng cao năng suất, tăng thu nhập cho nông dân nước bạn Lào. Đây còn là hình thức ngoại giao nhân, tăng cường mối quan hệ hữu nghị Việt – Lào ở cấp tỉnh và nhân dân hai nước, đặc biệt là thế hệ trẻ giữa 2 tỉnh.
Nguồn: nongnghiep.vn